GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT VÀ PHẬT PHÁP CĂN BẢN CHO NGƯỜI TẠI GIA

1-Chữ đạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa:

-Con đường: con đường đi đến cõi người gọi là nhân đạo, con đường đi đến người ngoài hành tinh gọi là thiên đạo, con đường đi đến mọi sự đau khổ tột cùng gọi là địa ngục đạo, con đường đi đến chỗ si mê lầm lạc gọi là súc sinh đạo, v.v...

-Bổn phận: như đạo nghĩa thầy trò, đạo nghĩa vợ chồng, đạo lý làm người v.v...

-Chân lý tuyệt đối, tâm thể sáng suốt sẵn có nơi mỗi chúng sinh: còn gọi là Phật tính, Niết-bàn, Chân như... Tùy theo mức độ nhận thức và hiểu biết mà chúng ta có thể hiểu chữ Đạo theo quy trình từ thấp đến cao.

2-Chữ Phật nghĩa là gì?

Phật nói cho đủ là Phật-đà, nói gọn lại là Phật, là một người đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn. Chữ Phật là danh từ chung, chỉ cho tất cả những ai đã tu hành phước huệ tròn đủ và thành tựu viên mãn.


3-Giác ngộ có mấy bậc?

Giác ngộ có ba bậc:

a-Tự giác: là tự mình giác ngộ do siêng năng tu tập, và biết cách buông xả để thoát khỏi mọi sự trói buộc trong cuộc đời lầm lạc si mê.

b-Giác tha: nghĩa là mình khi đã giác ngộ rồi tùy theo căn cơ trình độ của chúng sinh mà hướng dẫn lại để mọi người cùng được giác ngộ.

c-Giác hạnh viên mãn: là sự giác ngộ hoàn toàn nhờ phát tâm độ sinh với tinh thần tốt đạo đẹp đời và thành tựu đầy đủ công hạnh Bồ-tát không biết mệt mỏi nhàm chán.

4-Đạo Phật nghĩa là gì?

-Đạo Phật có hai nghĩa chính:

-Là con đường đưa tất cả chúng sinh vượt qua biển khổ sông mê đến bờ giác ngộ sáng suốt.

-Là phương pháp rèn luyện để giúp mình sống an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại mà chẳng tìm cầu đâu xa hoặc kiếp sau.

5-Đạo Phật ra đời từ lúc nào?

-Nếu nói theo nghĩa sáng suốt sẵn có nơi mỗi chúng sinh thì đạo Phật không có điểm khởi đầu, giống như bản chất của gương là tự sáng.

-Nếu theo nghĩa lịch sử thì đạo Phật có trước đạo Thiên Chúa 624 năm trước công nguyên tính theo năm sinh. Nói gọn lại thì đạo Phật đã có mặt hơn 2600 năm.

6-Ai khai sáng đạo Phật?

Người khai sáng ra đạo Phật chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nên được mọi người gọi ngài là Đức bổn sư.

 7-Lợi ích của đạo Phật là gì?

-Đạo Phật có ba lợi ích:

1-Với tinh thần từ bi hỷ xả, đạo Phật giúp cho nhân loại đoàn kết thương yêu nhau bằng trái tim có hiểu biết.

2-Với tinh thần bình đẳng, đạo Phật giúp cho mọi người không phân biệt đối xử theo thể chế chính trị, màu da sắc tộc và giai cấp cao thấp.

-Với ánh sáng trí tuệ, đạo Phật làm cho con người biết soi sáng lại chính mình để chuyển hóa bớt tối tăm, si mê lầm lạc mà gây khổ đau cho mình và người khác.

8-Giáo lý của đạo Phật gồm những gì?

Giáo lý đạo Phật gồm có Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng, gọi chung là ba tạng kinh điển.

-Kinh tạng: là văn bản được ghi chép lại những lời Phật dạy sau khi Ngài nhập Niết-bàn.

-Luật tạng: là những nguyên tắc đạo đức mà Phật đã chế ra nhằm ngăn ngừa các điều ác và làm những điều lành hoặc khi các vị đệ tử phạm giới.

-Luận tạng: là những sách vở phần lớn do các vị tổ sau này viết ra để luận bàn, giải thích rõ ràng về ý nghĩa lời Phật dạy để mọi người cùng nhau tham khảo và tu tập.


BÀI II: LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT
VÀ PHẬT PHÁP CĂN BẢN CHO NGƯỜI TẠI GIA

1-Người khai sáng đạo Phật là ai? Người khai sáng đạo Phật là đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

2-Trước khi xuất gia, Ngài tên là gì? Con của ai? Ở nước nào?

–Trước khi xuất gia, ngài là Thái tử Sĩ Đạt Ta,

–Con của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da,

–Ở nước Ấn Độ.

3-Khi một người phàm ra đời thì gọi là "đầu thai", nhưng đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, các nhà hiền triết dùng những từ ngữ gì? Ý nghĩa đó như thế nào?

Các nhà hiền triết dùng những từ ngữ:

–Đản sinh: là sự ra đời vui vẻ, làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn.

–Thị hiện: là hiện thân của một con người bằng xương bằng thịt,  được sinh ra từ bụng mẹ giống như tất cả mọi người.

–Giáng sinh: là từ chỗ cao quý mà hiện xuống một chỗ thấp kém hơn để sinh ra.

Ý nghĩa của ba từ trên nhằm ca ngợi sự tôn trọng và quý kính của một vị Phật. Ngài xuống trần để đem lại niềm an vui hạnh phúc cho chúng ta, giúp mọi người biết cách làm chủ bản thân nhờ thấu rõ chân lý cuộc đời.

4-Đức Phật đản sinh ngày nào?

Ngày rằm tháng 4 âm lịch, gọi là ngày Phật Đản.

5-Đức vua Tịnh Phạn đã cưới vợ cho Thái tử Sĩ Đạt Ta để sau này kế thừa sự nghiệp thế gian, mong con mình sống trong cung vàng điện ngọc vợ đẹp con ngoan. Vậy người vợ ấy tên gì? Sinh ra người con tên gì?

–Người vợ là công chúa Da Du Đà La con vua Thiện Giác.

–Người con là La Hầu La, lúc 7 tuổi theo đức Phật xuất gia.

6-Nguyên nhân gì khiến Thái tử Sĩ Đạt Ta xuất gia tìm cầu chân lý?

Nhận thấy sự đau khổ của kiếp người là sinh già bệnh chết không có ngày cùng, Ngài muốn tìm một con đường giải thoát cho chúng ta, nên đã từ bỏ cung vàng điện vợ đẹp con ngoan để sớm xuất gia tìm đạo.

7-Chữ Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là gì?

-Thích Ca: nghĩa là phát khởi lòng từ bi thương người bình đẳng.

-Mâu Ni: nghĩa là tâm hồn luôn trong sáng và yên tĩnh. Thích Ca Mâu Ni nghĩa là người luôn có lòng từ bi cứu người giúp vật mà không thấy ai là kẻ thù nên an nhiên tự tại giải thoát.

8-Đầu tiên Đức Phật tu theo phương pháp gì?

-Đầu tiên Ngài tu theo hai vị thiền sư nỗi tiếng thời bấy giờ nhưng quả chứng không được giác ngộ hoàn toàn.

-Kế đến Ngài tu theo phương pháp khổ hạnh, có khi mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt bắp và phơi mình giữa trời mưa nắng hoặc giá lạnh. Nhưng kết quả chỉ làm cho cơ thể suy kiệt, tinh thần không sáng suốt nên không tìm ra chân lý.

9-Sau đó Ngài đã tu hành thế nào?

a-Ngài quán chiếu lại hai phương pháp đã hành trì:

Tu mà còn hưởng thụ dục lạc thế gian giống như nấu cát mà muốn thành cơm thì không thể được. Tu mà khổ hạnh ép xác càng làm cho thân thể suy kiệtkhông thể thành tựu đạo quả.

b-Ngài tìm ra phương pháp trung đạo ăn uống vừa đủ để nuôi thân này mà dễ dàng buông xả mọi dính mắc ràng buộc.

c-Sau khi sức khỏe hồi phục Ngài tắm gội sạch sẽ, rồi đến gốc cây Bồ-đề ngồi thiền, thề nếu không chứng đạo quyết không rời bỏ chỗ này. Ngài ngồi thiền suốt 49 ngày đêm, chứng được tam minh lục thông và giác ngộ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

10-Sau khi thành đạo dưới gốc cây bồ-đề, đức Phật bắt đầu truyền đạo: Buổi thuyết pháp đầu tiên diễn ra tại đâu?

–Tại vườn Lộc Uyển và ai là những người nghe pháp đầu tiên? 5 anh em Kiều-trần-như là bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia.

-Bài pháp đầu tiên Đức Phật thuyết giảng là gì? Bài Tứ diệu đế tức là bốn chân lý sống trong cuộc đời.

-Đức Phật đã thuyết pháp tất cả bao nhiêu năm? 49 năm hoằng hóa độ sinh.

11-Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã hóa độ những ai?

-Ngài hóa độ tất cả các hạng người, từ vua quan, quý tộc cho đến ngoại đạo, nô lệ, kỹ nữ, tướng cướp, những người thuộc giai cấp hạ tiện.v.v... với tinh thần bình đẳng không phân biệt.

12-Bảng ghi nhận các mốc thời gian quan trọng trong cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời và nhập Niết-bàn:

-Đản sinh: ngày rằm tháng 4 âm lịch

-19 tuổi xuất gia: ngày 8 tháng 2 âm lịch

-30 tuổi thành đạo: ngày 8 tháng 12 âm lịch

-80 tuổi nhập Niết-bàn: ngày rằm tháng 2 âm lịch


BÀI III: CÁCH THỨC THỜ PHẬT, LẠY PHẬT, CÚNG PHẬT

1-Ý nghĩa thờ Phật là gì?

-Chúng ta thờ Phật để tỏ lòng biết ơn và đền ơn Ngài đã dấn thân đóng góp không biết mệt mỏi nhàm chán, để từng bước dìu dắt mọi người tiến quả giác ngộ giải thoát hoàn toàn.

-Thờ Phật để được học hỏi tấm gương sáng của Ngài qua các đức tính từ bi hỷ xả, trí tuệ thông suốt nhờ tâm thanh tịnh sáng suốt, từ đó nhắc nhở chúng ta làm các việc thiện ích, và không làm các việc sai trái xấu ác.

2-Ý nghĩa lạy Phật là gì?

Ngày xưa khi Đức Phật còn sống, các đệ tử thường cúi xuống hôn chân Phật và đặt trán mình lên đó để tỏ lòng tôn kính và biết ơn. Ngày nay chúng ta thờ hình tượng Đức Phật, lễ lạy bằng cách năm vóc toàn thân đầu mình tay chân chạm sát đất để tỏ lòng tôn kính.

3-Ý nghĩa cúng Phật là gì?

Ngày xưa, các thí chủ cúng dường đức Phật và Tăng đoàn để tỏ lòng tôn kính biết ơn và duy trì nếp sống thiền môn. Ngày nay chúng ta vẫn cúng dường như thế để duy trì ngôi Tam bảo mà có nơi nương tựa để tu học.

4-Chúng ta phải thờ vị Phật nào?

-Trước tiên là phải thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì Ngài là người đã khai sáng ra đạo Phật có lịch sử rõ ràng. Song bên cạnh đó chúng ta có thể thờ thêm hai bên các vị Bồ-tát như Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ -tát Đại Thế Chí. Tuy nhiên tùy sở thích của mỗi người mà chúng ta có thể thờ một vị Phật khác như Phật Dược Sư, Phật A Di Đà .v…v.. Nhưng chính yếu vẫn là thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì Ngài đã xuất hiện nơi thế gian bằng xương bằng thịt, còn các vị Phật khác Ngài nói lại trong các bản Kinh.

5-Lạy Phật mấy lạy là đúng? Tại sao?

-Lạy 3 lạy là đúng nhất. Đó là lễ lạy Tam bảo tức Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo. Nhưng thật ra, vì lòng thành kính đối với Phật, ta có thể lạy bao nhiêu cũng được để tỏ lòng tôn kính và xả bỏ tâm cống cao ngã mạn. Nhưng với người bệnh hoạn, hoặc già yếu không lạy được đúng phép thì cũng không có tội, miễn sao giữ tâm thành kính hướng về Phật là tốt.

6-Chúng ta nên cúng Phật món gì?

-Đúng phép là cúng Phật năm món: hoa, đèn, hương, trái cây, nước trong.

-Nhưng với lòng tôn kính và biết ơn, chúng ta có thể cúng những món mà ta nấu nướng thanh tịnh, như cháo, chè, bánh, cơm chay v.v...

7-Gia đình nghèo không đủ tiền mua hoa và trái cây thì sao?

Đã nói là cúng dường với tấm lòng thành của mình, nếu có cũng tốt không có cũng không sao cả. Tấm lòng tôn kính và biết ơn mà cố gắng học hỏi và tu sửa mới thật là quý giá.


BÀI IV: TAM QUY, NGŨ GIỚI VÀ
PHẬT PHÁP CĂN BẢN CHO NGƯỜI TẠI GIA

1-Quy y có nghĩa là gì? Quy: là trở về; Y: là nương tựa; Quy y là trở về nương tựa. Quy y cũng có nghĩa là tôn kính vâng lời và làm theo những lời dạy quý báu.

2-Tam bảo nghĩa là gì? Tam là ba; bảo là quý báu; Tam bảo là ba ngôi quý báu: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

-Phật bảo: là con người có thật trong lịch sử là đấng giác ngộ hoàn toàn, là hình tượng Phật chúng ta đang thờ.

-Pháp bảo: là những lời dạy của Đức Phật được ghi chép lại mà lưu truyền cho đến ngài hôm nay.

-Tăng bảo: là những vị xuất gia tu hành chân chính, vừa học vừa tu và hướng dẫn lại cho quý Phật tử.

 3-Quy y Tam bảo là gì? Tại sao phải quy y Tam bảo?

Quy y Tam bảo là trở về nương tựa ba ngôi quý báu Phật, Pháp, Tăng. Chúng ta phải quy y Tam bảo để được hướng dẫn và tu học nhằm mục đích trau giồi phẩm chất đạo đức mà biết cách hoàn thiện chính mình, vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

4-Lợi ích của Quy y Tam bảo?

Người Phật tử sau quy y Tam bảo thì khỏi đọa lạc vào ba đường ác là địa ngục, quỷ đói và súc sinh.

5-Sau khi quy y Tam bảo, người Phật tử phải phát nguyện gìn năm điều đạo đức. Vậy năm điều đạo đức đó là gì? Phật vì lòng từ bi nên mới chế ra năm điều đạo đức để giúp chúng ta ngăn ngừa tội lỗi và không làm các việc xấu ác.

-Năm điều đạo đức gồm có :

1-Không sát sinh hại vật

2-Không gian tham trộm cướp

3-Không tà dâm ngoại tình

4-Không nói dối hại người

5-Không uống rượu say sưa và xử dụng các chất kích thích độc hại như xì ke ma túy.v..v.

-Không sát sinh: là không giết hại sinh mạng con người cho tới hạn chế tối đa giết hại các loài vật, vì ai cũng ham sống sợ chết.

-Không gian tham trộm cướp: trộm là lén lấy, cướp là công khai giành giựt lấy.

-Không tà dâm ngoại tình: Phật tử khi khôn lớn trưởng thành có quyền lấy vợ lấy chồng nhưng sống chung thủy để bảo vệ hạnh phúc gia đình mình và người khác.

-Không nói dối hại người: là không nói sai sự thật gây tổn hại cho người khác, nhưng có thể nói dối để cứu người.

-Không uống rượu: là không dùng những chất gây say sưa, nghiện ngập, kể cả cờ bạc, cá độ, hút chích xì ke ma túy...

6-Lợi ích chính của việc không sát sinh?

-Không bị người oán giận thù hằn và giết hại.

-Sống thọ, không chết yểu và chết vì những tai nạn bất ngờ.

-Tránh được nạn chiến tranh binh đao tàn sát.

7-Lợi ích chính của sự không gian tham trộm cướp?

-Không bị người khác lường gạt trộm cướp dưới nhiều hình thức.

-Được sống trong an ổn không lo lắng sợ hãi.

8-Lợi ích chính của sự không tà dâm ngoại tình?

-Gia đình sống an vui hạnh phúc.

-Được sắc đẹp vẹn toàn.

9-Lợi ích chính của sự không nói dối hại người?

-Có uy tín, được tin tưởng giao cho những công việc quan trọng.

-Không bị kẻ khác lừa gạt, thất hứa.

10-Lợi ích chính của sự không uống rượu?

-Được thông minh, trí tuệ.

-Gia đình sống an vui hạnh phúc không bị nạn bạo hành gia đình và con cái ít bệnh tật.


BÀI V: BỔN PHẬN NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA

1-Các bổn phận của người Phật tử tại gia?

Người Phật tử tại gia có 5 bổn phận:

-Bổn phận đối với bản thân.

-Bổn phận đối với gia đình người thân.

-Bổn phận đối với người ngoài gia đình.

-Bổn phận đối với xã hội.

-Bổn phận đối với Phật pháp.

2-Bổn phận của Phật tử đối với bản thân?

a-Giữ năm điều đạo đức để sống tốt đời đẹp đạo.

b-Sám hối và ngăn ngừa những việc làm sai trái.

c-Tích cực làm việc thiện và kêu gọi mọi người cùng nhau hưởng ứng vì lợi ích chung.

d-Siêng năng học hỏi giáo lý của đức Phật qua sự hướng dẫn của những người tu hành chân chính.

3-Bổn phận của Phật tử đối với gia đình người thân?

a-Cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ.

b-Sống chung thủy trong vợ chồng.

c-Nuôi dạy con cái với tinh thần trách nhiệm cao, tin sâu nhân quả và biết tự lực trong cuộc sống.

d-Thương yêu nhường nhịn, vui vẻ thuận thảo giúp đỡ anh chị em.

-Ngoài ra chúng ta còn có trách nhiệm hướng dẫn mọi người trong gia đình biết quy hướng về Phật pháp để cùng nhau học hỏi và tu sửa nhằm biết cách hoàn thiện chính mình.

4-Bổn phận của Phật tử đối với người ngoài gia đình?

a-Siêng năng chăm chỉ học hành, biết vâng lời thầy cô giáo, sống có ý thức và giữ gìn hạnh kiểm tốt.

b-Giúp đỡ, động viên an ủi bạn bè cùng nhau học hành tiến bộ trên tinh thần đoàn kết thương yêu bằng trái tim có hiểu biết.

c-Hòa nhã, tương trợ xóm giềng, bà con mỗi khi có việc cần thiết.

5-Bổn phận của Phật tử đối với xã hội?

a-Làm tròn nghĩa vụ công dân, chấp hành luật pháp.

b-Tham gia các phong trào xã hội, dấn thân đóng góp vì lợi ích mọi người.

c-Sống gương mẫu đạo đức để mọi người có thiện cảm và hiểu đúng về đạo Phật chân chính.

6-Bổn phận của Phật tử đối với Phật pháp?

a-Lễ Phật, tụng kinh, sám hối, hành thiền và cúng dường người tu hành chân chính.

b-Học hỏi giáo lý Phật-đà theo tinh thần nghe rồi suy nghĩ và thực hành cảm nhận có an lạc hạnh phúc, mới chọn lựa pháp môn phù hợp với mình để tu tập.

c-Siêng năng và nhiệt tình truyền bá chính pháp Phật-đà được tỏa sáng khắp muôn nơi.

7-Cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ:

- Hiếu tâm,

- Hiếu dưỡng,

- Hiếu hạnh,

- Hiếu đạo.

8-Hiếu tâm là như thế nào?

-Hiếu tâm: Là sự thương yêu, tôn kính chân thành với tinh thần biết ơn và đền ơn, vì nghĩ đến sự vất vả sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Cung cấp và dưỡng nuôi cho cha mẹ là trách nhiệm và bổn phận của con cái. Tuy nhiên, không ít trường hợp người con báo hiếu cha mẹ không thật lòng, chẳng qua là vì hoàn cảnh bắt buộc. Thế cho nên, con cái cung kính hiếu thảo với cha mẹ, một lòng mong muốn cha mẹ được an vui, hạnh phúc gọi là hiếu tâm.

9-Hiếu dưỡng là như thế nào?

Là chăm sóc cha mẹ về vật chất.

-Đỡ đần công việc, lo miếng ăn, thức uống, áo quần, nhà cửa...

-Cha mẹ đau ốm thì lo thuốc men, chăm sóc.

-Cha mẹ qua đời thì lo tang lễ chu đáo. Hiếu dưỡng: Nghĩa là cung kính dưỡng nuôi cha mẹ đầy đủ về phương diện vật chất từ thức ăn uống, chỗ ở cho đến thuốc thang mỗi khi bệnh hoạn hay những lúc già yếu. Người Phật tử chân chính nếu biết cung kính cúng dường Tam Bảo, làm từ thiện để giúp đỡ người khác thì trước tiên phải biết cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ mình trước.

10-Hiếu hạnh là như thế nào?

-Hiếu hạnh: Là làm cho cha mẹ hãnh diện vì những đức hạnh tốt đẹp của con cái từ khi còn nhỏ đến khi khôn lớn trưởng thành.

-Học hành chăm ngoan, có hạnh kiểm tốt được nhà trường khen ngợi.

-Hiền lành, hòa nhã với mọi người, tiếng lành vang xa.

-Dấn thân đóng góp cứu giúp người hoạn nạn nghèo khó, cha mẹ được thơm lây.

Báo hiếu nghĩa là một trách nhiệm thiêng liêng và cao quý của con cái, báo hiếu là truyền thống tốt đẹp, là nếp sống đạo đức với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”. Nếu nói cho đúng nghĩa, báo hiếu là việc làm của người giác ngộ, của các vị Bồ-tát, của người con thảo cháu hiền. Chính vì vậy, ai đã làm người phải xem việc báo hiếu là một nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của đời mình.

11-Hiếu đạo là như thế nào?

-Hiếu đạo: Là hướng dẫn cha mẹ đi vào con đường thánh thiện, để cha mẹ được nhiều phước báo trong hiện tại và mai sau mà không bị đọa lạc vào 3 đường khổ.

-Khuyên cha mẹ tin sâu nhân quả biết tránh tội và làm phước.

-Khuyên cha mẹ biết quy hướng Tam bảo, niệm Phật Bồ-tát, giữ  giới và giúp đỡ sẻ chia dưới nhiều hình thức.

-Nếu cha mẹ đã biết tu rồi, thì con cái phải biết cáng đáng việc nhà cho cha mẹ đi chùa, tụng kinh niệm Phật, tu ngày an lạc, hoặc đưa tiền cho cha mẹ cúng dường Tam bảo và tham gia các việc công ích.



-Khi cha mẹ qua đời thì làm lễ tang đúng theo tinh thần Phật giáo chân chính, chứ không phô trương rình rang, giết thịt ăn nhậu, vô tình ta gây thêm nhiều tội lỗi làm ảnh hưởng xấu đến gia đình người thân và người quá cố. Đây là đạo lý nền tảng giúp cho mọi người sống phải có ý thức trách nhiệm, về mọi hành vi đạo đức ở đời nhằm thăng hoa cuộc sống mà hoàn thiện chính mình, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Một người con dù trai hay gái, phải biết báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Việc báo hiếu đó phải thực hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.

Báo hiếu phương diện vật chất: Những điều cần thiết mà người con cần phải phụng dưỡng cha mẹ là thức ăn, đồ mặc, chỗ ở, thuốc men, giải trí. Đặc biệt khi cha mẹ già yếu mất sức lao động thì con cái phải có trách nhiệm dưỡng nuôi cha mẹ. Tuy nhiên, việc làm ra của cải vật chất để phụng dưỡng cha mẹ bằng đôi bàn tay và khối óc của mình một cách lương thiện. Trong kinh Phật dạy: “Người con vì cha mẹ mà làm các điều xấc ác để báo hiếu cho cha mẹ, người ấy sẽ bị đọa lạc vào chỗ thấp kém.

Báo hiếu phương diện tinh thần: Theo đạo Phật, báo hiếu về phương diện tinh thần không chỉ đơn thuần là làm cho cha mẹ luôn được vui vẻ, hạnh phúc, mà còn phải hướng cha mẹ tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành, biết buông xả và sống đời bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Nói tóm lại, trong 4 phần báo hiếu, có thể nói hiếu đạo là quan trọng nhất vì bao gồm hết tất cả.


BÀI 6: BỐN PHƯƠNG PHÁP TẠO DỰNG CUỘC ĐỜI

Chúng ta khi tu hành, ai cũng đều muốn nổ lực cho bản thân mình được lợi ích, đó gọi là tự lợi và đem san sẻ giúp đỡ cho người khác  gọi là lợi tha. Tự lợi và lợi tha là con đường tu hành của Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị Bồ-tát.

Là Phật tử chân chính với tinh thần đạo pháp và dân tộc mang đạo vào đời, chúng ta phải tin sâu nhân quả, người hay bố thí sẽ được hưởng quả giàu sang phú quý, nếu gian tham lừa gạt thì phải chịu quả nghèo đói, thiếu thốn khó khăn. Thế cho nên, Bồ-tát đi vào đời bằng 4 phương tiện thiện xão để cứu độ chúng sinh đó là tú nhiếp pháp.

1-Định nghĩa Tứ nhiếp pháp là gì? Tứ là 4; nhiếp là thu phục; pháp là phương pháp. Lợi tha là làm lợi ích cho người khác. Tứ nhiếp pháp là 4 phương pháp lợi tha để giúp tất cả chúng sinh biết quay về với Phật pháp chân chính mà sống an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

2-Tứ nhiếp pháp gồm những phương pháp nào? Tứ nhiếp pháp là bốn phương tiện để nhiếp phục, cảm hóa tâm lý của người đời. Khi đã cảm hóa được họ, lần hồi từng bước hướng dẫn họ phát khởi niềm tin, mở mang trí tuệ và thâm nhập Phật pháp. Các phương tiện này là: Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp.

3-Bố thí nhiếp là gì? Bố thí nhiếp là đem những gì mình có bằng vật chất lẫn tinh thần để cứu giúp người khác khi cần thiết, nhằm tạo sự thiện cảm để họ tâm phục, khẩu phục và mến mộ mà biết quay về với Phật pháp chân chính.

4-Vậy bố thí có mấy phần? Hãy kể ra? Bố thí có 3 phần: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.     

a-Tài thí: (tài là tiền tài của cải, vật chất) thí là tặng cho biếu giúp đỡ là đem tiền của, vật chất mà san sẻ, để cứu giúp người đang trong cơn hoạn nạn, thiếu thốn khó khăn.

b-Pháp thí: (Pháp là những lời dạy của đức Phật được ghi chép lại trong tam tạng kinh điển với hơn 30 ngàn bài kinh từ thấp đến cao, từ đạo lý làm người cho đến bậc hiền Thánh). Pháp thí gồm có 2 phần: 1 là cho người xuất gia tu hạnh giải thoát hoàn toàn và cứu độ chúng sinh; 2 là cho người tại gia tu giác ngộ từng phần giảm bớt phiền não khổ đau hoặc đem những phương pháp làm ăn, nghề nghiệp chân chính dạy cho người khác, giúp họ biết sinh sống mà không làm tổn hại đến người và vật.

c-Vô úy thí: (vô úy là không sợ hãi) là chia sẻ cách thức để mọi người biết cách sống không lo lắng, sợ hãi do tham lam ích kỷ, ngu dốt gây ra nhằm đem đến bình yên hạnh phúc giúp họ an trú trong giờ phút hiện tại. Chúng ta từ lúc sinh ra cho đến khi khôn lớn trưởng thành có khi sợ bóng tối, sợ cô đơn, sợ đau ốm tai nạn, sợ hoàn cảnh khó khăn, sợ mất mát đau thương, thậm chí sợ những điều vớ vẫn vu vơ do tâm lý không vững vàng. Bồ-tát hiểu rõ điều này, nên các Ngài thường bố thí không sợ hãi để giáo hóa chúng sinh sống an ổn do biết cách làm chủ bản thân.

5-Trong tài thí có mấy phần? Tài thí có 2 phần là ngoại tài và nội tài.

-Tài thí gồm có nội tại và ngoại tài:

Nội tài thí: Dùng cả thân mạng hoặc một vài bộ phận trong cơ thể để bố thí. Đây là hạnh động buông xả lớn của các Bồ-tát. Hiện nay, có phong trào hiến máu nhân đạo, hiến tặng các chi phần trong cơ thể hoặc hiến xác cho khoa học, đều thuộc về lọai này.

Ngoại tài thí: Dùng tài sản của mình kiếm được một cách lương thiện, đem san sẻ cho những người nghèo khổ thiếu thốn, khó khăn nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh.

6-Ái ngữ nhiếp là gì? Ái ngữ nhiếp là khéo léo dùng lời nói hòa nhã, an ủi, khuyên lơn nói đúng sự thật, làm cho mọi người nâng cao trình độ hiểu biết mà mến phục, để rồi từ đó họ mới theo ta cùng nhau học hỏi và tu sửa.

Trong mối quan hệ thân thiện chúng ta cần sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp hoặc muốn bày tỏ ý kiến, tình cảm với mọi người chung quanh. Chính vì vậy, người Phật tử chân chính khi nói ra điều gì, phải mang tính cảm thông và xây dựng. Một số người có quyền hành thường dùng áp lực để bắt mọi người phải làm theo, nếu làm khác đi thì họ tìm cách trù dập làm tỗn thương cho nhân loại. Dĩ nhiên, quyền lực cũng cần thiết nhưng phải dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng nơi để duy trì an sinh sự sống. Thế cho nên sử dụng ái ngữ đối với con cái hay mọi người chung quanh là một nghệ thuật sống phù hợp với đạo lý làm người là điều cần thiết.

7-Lợi hành nhiếp là gì? Lợi hành nhiếp là làm lợi ích cho người bằng ý nghĩ, lời nói và hành động dấn thân phục vụ, khiến người sinh lòng cảm mến mà theo ta học hạnh từ bi hỷ xả vói tinh thần tốt đạo đẹp đời. Thí dụ như: đắp đường, bắc cầu, nấu cơm từ thiện cho các bệnh nhân nghèo, xây nhà tình thương, nhà dưỡng lão và trại mồ côi.v..v...

8-Đồng sự nhiếp là gì? Đồng sự nhiếp là tạo điều kiện cùng làm chung một công việc, để tạo phương tiện sống gần gũi với mọi người nhằm giúp đỡ họ làm tốt công việc ấy, sau đó dẫn dắt họ đến với Phật pháp. Cuộc sống hòa mình, cùng chung buồn, vui, sướng, khổ với người là một nghệ thuật sống. Nhưng muốn hòa đồng như thế, chúng ta phải có lối sống có phong cách, có ngôn ngữ gần giống người mà mình muốn nhiếp phục.

Trong tứ nhiếp pháp, đồng sự nhiếp là phương pháp hiệu quả nhất vì chúng ta thường xuyên gặp gỡ họ mỗi ngày, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng gánh vác, cùng sẻ chia nên ta có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng ước muốn của họ để ta giúp đỡ một cách thiết thực hơn. Và mỗi ngày ta đều nêu tấm gương tốt của người Phật tử tại gia cho họ nhìn thấy, quay đầu là bờ và ai cũng có thể làm được nếu quyết tâm cao độ.

9-Tứ nhiếp pháp có những lợi ích gì khi ta áp dụng thực hành?

-Về phương diện cá nhân: Ta sẽ gieo được những hạt giống thiện lành tốt đẹp cho mình trong hiện tại và mai sau.

-Về phương diện gia đình: Mọi người cùng sống vui vẻ thuận thảo với nhau để làm tròn bổn phận và trách nhiệm.

-Về phương diện xã hội: Ta sẽ gây được tiếng vang tốt đẹp nhờ sống đạo đức và phụng sự xã hội mà góp phần làm giảm bớt tệ nạn xã hội. Số người tu tập bốn phương pháp vào đời thì xã hội sẽ ổn định, kế thừa và phát triển với tinh thần “tốt đời đẹp đạo” mà hai triều đại Lý-Trần sáng lập.

Nói tóm lại, 4 nhiếp pháp là pháp môn hiện thực đi vào đời nhằm nhiếp hóa, cảm phục được lòng người một cách có lợi ích thiết thực mà vẫn giữ được triết lý sống của đạo Phật. Đây là hạnh phước huệ song tu của các vị Bồ-tát, muốn hiến dâng cuộc đời mình cho lợi ích chung với tinh thần tốt đạo đẹp đời.


BÀI 7: PHẬT PHÁP CĂN BẢN-NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO

1-Nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân; quả là kết quả; nhân quả là mối quan hệ mật thiết do nhiều yếu tố kết hợp mà đưa đến kết quả tương xứng. Thí dụ: Hạt bắp thì sẽ trồng lên cây bắp chứ không thể ra cây xoài.

2-Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về mối quan hệ của nhân quả?

-Nhân và quả có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau theo nguyên lý duyên sinh, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Trong nhân có quả, và trong quả có nhân.

-Nếu chúng ta hiểu theo ý nghĩa thông thường và cố định thì nhân nào sẽ cho ra quả nấy không thể thay đổi được.

 Thí dụ: Ta nhìn vào hạt mít thì biết nó hàm chứa quả mít trong tương lai. Ngược lại, nhìn quả mít ta biết trước kia nó xuất phát từ  nhân là hạt mít.

Cũng tương tự như thế, nhìn vào một người đang làm việc siêng năng, sống đời đạo đức vị tha, ta sẽ đoán biết kết quả trong tương lai là "sống an lạc, hạnh phúc". Hoặc nhìn vào một người khác, thấy họ nghèo khổ thiếu thốn khó khăn, thì ta có thể đoán biết nhân duyên trước kia là gây tạo nhiều tội lỗi.

3-Vậy quá trình từ nhân đến quả diễn biến như thế nào? Từ nhân đến quả không có một thời gian nhất định, có thể chậm, có thể nhanh, tùy theo sự kết hợp của các duyên mà cho ra kết quả tốt hay xấu.

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, tùy theo những nguyên nhân và các yếu tố phụ tác động vào mà có sự thay đổi về thời gian. Thí dụ, cây mít trồng đúng bốn năm thì có quả, nhưng do người chủ siêng năng chăm sóc đúng quy trình biết kết hợp theo thời tiết nóng lạnh mà thường xuyên bón phân, tưới nước, làm cỏ, nên 3 năm cây mít đã trổ quả trước kỳ hạn. Chính các duyên này tác động mạnh mẽ đã làm thay đổi thời gian của chu kỳ nhân quả, khiến cây mít có trái sớm hơn dự tính ban đầu.

Cũng tương tự như thế, một người làm ác nhưng chưa kịp trả quả xấu thì họ đã gặp các bậc thiện hữu tri thức giúp họ hồi tâm hướng thiện, khiến nhân quả xấu không có cơ hội trổ quả ngay nơi kiếp hiện tại. Những người thầy đạo đức đó đã tác động mạnh mẽ vào quá trình thay đổi nhân quả của họ.

4-Chúng ta có thể dựa vào yếu tố thời gian mà chia nhân quả ra làm mấy loại? Ta có tạm thời thể chia làm 3 loại nhân quả:

-Nhân quả hiện báo hay còn gọi là nhân nào quả nấy, khi tạo nhân sẽ có kết quả ngay trong đời này. Có loại nhân quả gần, tất là khi ta làm điều gì thì có kết quả liền trong hiện tại, không phải chờ đợi lâu xa. Thí dụ, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu hay còn gọi là nhân nào quả nấy. Trường hợp thứ hai như khi ta đang đói bụng, ta ăn cơm vào thì liền là no hoặc ta đánh trống thì nghe được âm thanh của trống ngay tức khắc. Ta gọi là nhân  quả hiện tiền hay nói ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.

-Nhân quả sinh báo: khi tạo nhân trong đời này, sẽ có quả trong đời sau. Có những nhân, nếu ta gieo trong hiện tại có khi ta phải trả quả trong một thời gian ngắn từ năm ba tháng cho đến vài năm mới cho ra kết quả.

-Nhân quả hậu báo: khi tạo nhân trong đời này, đến nhiều đời sau mới cho ra kết quả. Còn có những nhân ta gieo tạo thì phải trải qua một đời, hai đời hoặc vô số kiếp về sau thì quả mới trổ ra. Và có điểm đặc biệt là khi chúng ta gieo nhân mà không có kết quả do thiếu những duyên phụ hoặc ta tu hành quá tinh tấn nên nhân xấu không đủ sức trổ quả.

Như trường hợp trong một lúc ta cùng gieo ba thứ hạt giống cây lúa, cây chuối, cây mít đồng thời ta chăm sóc kỹ càng nhưng kết quả cho ra không cùng một thời gian. Cây lúa khi gieo xuống thì từ ba tháng cho đến sáu tháng có kết quả, cây chuối phải từ chín tháng đến một năm, còn cây mít ít nhất phải từ hai năm trở lên, đó là nhân quả thuận chiều theo nhân duyên. Nhưng có những nhân mà ta đã gieo lại không có kết quả, nửa chừng cây bị chết hoặc bị trường hợp rủi ro khác.

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta là những phàm phu mắt thịt, không thể nào nhìn thấy hết tất cả tiến trình chi phối và diễn biến của luật nhân quả.

Điều này thực tế trong cuộc sống, tuy có nhiều người làm việc thiện mà cuộc đời vẫn gặp bất hạnh khổ đau, bởi quả thiện lành tốt đẹp của kiếp này chưa đủ duyên để kết thành quả trong hiện tại, mà họ đang phải nhận chịu quả xấu của kiếp trước còn xót lại. Sau khi trả hết quả xấu đó, ta sẽ nhận quả thiện mà sống vui vẻ hạnh phúc.

5-Nghiệp là gì? Nghiệp phát khởi từ đâu?

-Nghiệp là những hành động có chủ ý, sẽ đưa đến những quả báo tương xứng trong hiện tại và mai sau. Nghiệp nói cho đủ gọi là nghiệp quả báo ứng được tạo ra từ thân, miệng, ý của chính mình. Bởi vì nghiệp nhân chúng ta đã gây thì nghiệp quả phải đến chỉ sớm hay muộn mà thôi. Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải thận trọng trong từng ý nghĩ lời nói, cho đến hành động do mình tạo ra trong từng phút, từng giây… Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm đáng tiếc.

6-Thế nào là biệt nghiệp và cộng nghiệp?

-Biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng cá nhân chúng sinh. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều chúng sinh. Cùng sinh ra trong một gia đình, sống chung một đất nước, nói cùng một ngôn ngữ, người thích cờ bạc thì chỉ muốn giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì lân cận ăn chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy con người thân cận, kết bạn với nhau và biệt nghiệp khiến chúng ta có dáng mạo, tánh tình, năng khiếu và trí tuệ khác nhau.

a-Nghiệp: là dịch nghĩa chữ Karma tiếng Phạn, chỉ hành động tạo tác được lập đi lập lại nhiều lần lâu ngày trở thành thói quen của mỗi người. Nghiệp có nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp chung, nghiệp riêng, định nghiệp và bất định nghiệp... Nghiệp thiện là hành động lành đem lại sự an vui hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Nghiệp ác là hành động dữ làm đau khổ cho tất cả chúng sinh. Định nghiệp là hành động lành hay dữ có chủ tâm của ý thức mà tạo thành nghiệp quyết định. Bất định nghiệp là hành động tốt hay xấu mà không có ý thức cố tâm, nên thành nghiệp không quyết định (như người bệnh tâm thần).

b-Báo: là đền trả một cách công bằng, không sai chạy, không tiêu mất khi đủ nhân duyên. Báo chia làm ba thứ: hiện báo, sinh báo và hậu báo.

-Hiện báo là quả báo trong hiện tại, do những hành động tốt hay xấu mình đã làm ra.

-Sinh báo là quả báo mình phải chịu trong đời sau, do hành động tốt hay xấu của ba nghiệp, đến đời sau mới chịu quả báo.

-Hậu báo là qua nhiều đời kiếp mới chịu quả báo.

7-Nghiệp có thể thay đổi được không hay cố định mãi mãi?

Trong Kinh A-hàm, đức Phật đưa ra ví dụ rất hay: “Có một nắm muối, nếu ta bỏ vào ly nước nhỏ thì ly nước ấy sẽ bị mặn, ta không thể uống được. Cũng cùng một nắm muối đó, nếu ta bỏ vào một lu nước lớn, tuy có nắm muối hoà tan nhưng vì nước trong lu quá nhiều, cho nên nước hơi măn mẳn ta có thể dung xài hoặc giải khát tạm thời được. Cũng cùng một nắm muối đó, ta đem bỏ vào một hồ lớn, tuy có nắm muối bỏ vào, nhưng nước trong hồ quá nhiều, vì vậy nắm muối không thể chi phối được, do đó ta có thể dùng xài bình thường.

Nhà Phật dụ cho nắm muối là nghiệp xấu ác, còn nước là nghiệp thiện lành và khả năng tu tập của mỗi người. Tuy trong nhà Phật có nói rằng, gieo nhân nào gặt quả nấy, nhưng nhân quả do hành động của mình tạo ra từ thân, miệng, ý thì cũng từ chính mình ta có thể thay đổi, chuyển hóa được. Cũng như trước kia, lúc còn nhỏ, chúng ta chưa biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc… đến khi lớn lên, hòa vào đời sống cộng đồng, ta thấy mọi người làm điều đó, rồi ta bắt chước làm theo lâu ngày trở thành thói quen thế là ta bị nghiệp xấu chi phối.

Rồi thời gian trôi qua theo năm tháng, chúng ta có duyên được đến chùa học hỏi, nghe pháp và biết tu tập, ta thấy được sự tác hại của nó mà dứt khoát từ bỏ.

Nắm muối bỏ vào ly nước là đức Phật dụ cho nhân nào quả nấy để ám chỉ cho hạng người buông trôi theo số phận, chẳng chịu cố gắng làm lại cuộc đời vì nghĩ rằng số tôi như thế mà chấp nhận sống trong đau khổ lầm mê.

Nắm muối bỏ vào lu nước lớn là dụ cho người đã cố gắng thay đổi bỏ bớt, nhưng không bỏ được hoàn toàn dù sao cũng đỡ hơn hạng người trước.

Hạng người thứ ba là hạng người hoàn toàn chuyển nghiệp xấu ác do biết tu thân, tu giới và tu tâm niệm rộng lớn cho nên đức Phật dụ cho nắm muối bỏ vào một hồ nước lớn.

Người đã tạo nghiệp thì phải nhận quả báo tương ứng. Nhưng nếu người đó biết ăn năn, tu tập và làm những nghiệp thiện để bù đắp lại thì quả báo sẽ xoay chuyển, có thể giảm nhẹ đi. Thế cho nên Phật nói tu là chuyển nghiệp.

8-Khi hiểu rõ luật nhân quả nghiệp báo, chúng ta sẽ không bị những thứ mê lầm chi phối?

-Không mê tín dị đoan vì biết chính ta là chủ của bao điều họa phúc.

-Không than trách, oán giận thù hằn khi gặp chướng duyên nghịch cảnh, không thấy ai là kẻ thù mà chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.

 Thư Viện Hoa Sen
Share:
Xem Tiếp →

NGhe rơi nước mắt Truyện BÁO ỨNG nhân quả, Hãy nghe dù chỉ 1 lần | Nhân ...



Từ suy nghĩ và hành động tới khi có kết quả phải có thời gian và thường là thời gian phải tính bằng năm. 
Đã bốn mươi năm qua kể từ khi tôi bắt đầu sự nghiệp.
Trong khoảng thời gian đó, tôi đã chứng kiến sự thăng trầm của rất nhiều người. Nếu nhìn cả quá trình 30 đến 40 năm thì hết thảy đều thấy được kết quả tương xứng với cách sống hàng ngày trong cuộc đời của từng người.
Nếu xem xét sự vật trong cả một quá trình dài thì những người cảm thấy tiếc nuối, ân hận vì đã không sống thành thực và không làm việc thiện sẽ thấy cuộc đời mình chỉ toàn gặp nỗi bất hạnh và cũng sẽ thấy những kẻ làm điều ác, những kẻ sống vô trách nhiệm cũng sẽ không thành công mãi được.
Mặt khác, trong thực tế cũng có kẻ làm việc xấu lại thành công do ăn may; người nỗ lực vì điều thiện lại gặp chuyện chẳng lành.
Nhưng thời gian trôi qua, mọi thứ dần dần thay đổi, cuối cùng tất cả sẽ thu được kết quả khớp với lời nói, việc làm, cách sống của từng người và hoàn cảnh do mình đó tạo ra. Chúng ta sẽ thấy "Nhân nào Quả ấy" thể hiện chính xác đến mức đáng sợ.
Từ suy nghĩ và hành động tới khi có kết quả phải có thời gian và thường là thời gian phải tính bằng năm.
Cách đây vài năm, Kyocera đã giúp đỡ Công ty công nghiệp Mita, một hãng sản xuất máy photocoppy đang rơi vào tình trạng phá sản. Sau khi lập ra công ty mới với tên gọi Kyocera Mita, tôi tiến hành tái thiết nó.
Một thời gian sau, kết quả kinh doanh dần dần được cải thiện, khoản nợ khổng lồ cũng được trả sớm hơn so với dự tính rất nhiều và giờ đây nó đã trở thành một trong những trụ cột của tập đoàn Kyocera.
Người có công trong quá trình tái thiết đó là người phụ trách bộ phận thiết bị thông tin của Kyocera, được bổ nhiệm làm giám đốc của Kyocera Mita và chịu trách nhiệm công cuộc tái thiết này. Thực ra, trước kia người đó đã từng là quản đốc nhà máy của một hãng chế tạo thiết bị điện tử viễn thông tiên tiến.
Công ty công nghiệp Mita trước đó đã phát triển mạnh mẽ đúng lúc đang rộ lên cơn sốt máy photocoppy, nhưng khi cơn sốt thoái trào thì công việc kinh doanh cũng xuống theo. 
Sau khi nhận được lời đề nghị giúp đỡ, Kyocera đã chi viện tài chính và coi nó là một thành viên tập đoàn. Đây là câu chuyện đã xảy ra cách đây hơn hai mươi năm.
Chúng tôi cũng nếm đủ muôn vàn vất vả trong quá trình tái thiết. Số là trong các nhân viên của Mita có những thành viên công đoàn quá khích.
Họ đưa ra nhiều đòi hỏi vô lý khó chấp nhận, thậm chí còn kéo đến cả nhà tôi đặt điều, dèm pha ác ý. Bản thân tôi chịu nhiều điều phiền phức và Kyocera cũng chịu nhiều điều tiếng.
Kyocera đã dang tay giúp đỡ công ty cũng như toàn bộ nhân viên của họ đang bị dồn vào đường cùng, vậy mà chúng tôi phải chịu những chuyện thị phi và riêng bản thân tôi cũng chỉ biết im lặng chịu đựng.
Nhưng rồi trong quá trình tái thiết, nhiều người trong số họ đã hiểu ra, cảm ơn sự giúp đỡ của Kyocera, sự giúp đỡ của Inamori.
Một trong số họ là giám đốc đầu tiên của Kyocera Mita mà tôi đã đề cập. Từ chỗ là người trước kia đã được cứu giúp thì lần này đã đứng ở phía đi cứu giúp. Những điều anh nói với tôi đã cho tôi một cảm nhận sâu sắc:
"Có thời, tôi đã được người khác cứu. Dịp này tôi trở thành người đi cứu người khác. Tôi cảm nhận được vòng tròn của số mệnh. Với việc chịu trách nhiệm tái thiết công ty Kyocera Mita, cơ hội để tôi trả ơn đã tới. Tôi đã cảm nhận rõ luật nhân quả!".
Sau khi nghe lời giãi bày của anh, tôi thực sự cảm động. Khi xem xét sự vật trong cả một quá trình dài thì quan hệ nhân quả rất rõ ràng.



Không thể nào cứ làm điều thiện mà kết thúc với kết quả xấu, có thể trong nhất thời tôi đã phải chịu nhiều sức ép nhưng kết cục tôi đã thành công trong công cuộc tái thiết và cũng đã nhận được lòng biết ơn từ các nhân viên Mita.
Tôi tin tưởng chắc chắn vòng tuần hoàn nhân thiện dẫn tới quả thiện sẽ còn mở rộng hơn nữa.
Trong cuốn sách "Thái căn đàm" thời nhà Minh của Trung Quốc có câu: "Làm việc thiện mà chưa nhìn thấy lợi ích của nó cũng giống như tìm quả dưa gang nằm khuất trong đám cỏ tạp".
Câu này có nghĩa là mặc dù làm điều tốt nhưng kết quả tốt chưa xuất hiện thì cũng giống như quả dưa gang lặng lẽ phát triển lẫn trong đám cỏ mà chúng ta không nhìn thấy. Để nhân quả báo ứng thì cần có thời gian.
Khắc sâu điều này trong tâm, chúng ta không được nóng vội, sốt ruột về kết quả mà hãy lặng lẽ hàng ngày làm điều thiện. Sự nỗ lực rồi rồi sẽ được đền đáp.
Share:
Xem Tiếp →

Pháp Môn Tịnh Độ

Hỏi: Nếu đã có Tín, Hạnh sâu chắc và phát nguyện vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc, thì có phải là vẫn còn tâm tham hay không?
ĐápMọi người có tham được an vui không? Có tham được trí tuệ không? Có tham được công đức không? Tất cả đều còn mong muốn đạt được như vậy, cho nên tham là điều không tránh khỏi. Nói ở mặt tích cực tham muốn là lẽ đương nhiên, nếu không như vậy thì chúng ta đâu dễ dàng chấp nhận tu hành.
Nếu xét về mặt tiêu cực là vì nhìn thấy cõi Ta bà này quá khổ và có nhiều chuyện đau buồn, cho nên mong muốn được sinh về cõi Cực Lạc cho an nhàn bản thân. Tuy thấy là có lý, nhưng điều này không hẳn là đúng. Bởi vì cầu mong cho riêng bản thân của mình được an ổn là tâm ích kỷ nhỏ hẹp, không phải là phát tâm Bồ đề của người tu học theo Phật. Phát nguyện như thế là không chân chính. Ngược lại, nếu phát nguyện vãng sinh về cõi Cực Lạc để tham học với Phật và chư Bồ tát cho thành tựu giác ngộ, sau đó quay trở lại cõi này để làm lợi ích cho chúng sinh, mới thật là phát tâm chân chính đúng với chánh pháp.


Hỏi: Trong lúc tu hành, một tâm niệm thiện vừa khởi lên, thì lập tức có chín tâm niệm ác xuất hiện khống chế là vì lý do gì?



ĐápSở dĩ có việc như thế là do nhiều đời nhiều kiếp về trước mình đã huân tập nghiệp xấu ác quá sâu dầy. Đời nay muốn thoát khỏi niệm ác, thì chính bản thân phải có tâm đại hùng đại lực để tu hành. Thông thường ở chánh điện của các chùa có treo bảng ‘Đại Hùng Bảo Điện’, nghĩa là điện báu để tôn thờ bậc đại anh hùng. Anh hùng của thế gian là chiến thắng người khác, nhưng bậc đại anh hùng xuất thế gian là chiến thắng chính bản thân của mình. Chiến thắng được cái tâm ham muốn, nóng giận, hơn thua và đánh bại được si mê, lầm lạc, đồng thời chế phục được thói quen xấu ác trong nội tâm của mình, đó mới thật sự là bậc đáng tôn kính.
Muốn làm được như vậy, trước tiên chúng ta phải thấy được nghiệp chướng của mình. Nghiệp chướng là thói quen, cách làm, suy nghĩ sai lầm của mình đã huân tập từ nhỏ đến lớn. Sau đó, tìm cách để chiến thắng, khắc phục được những thói quen xấu ác đó. Muốn chiến thắng thì phải có tâm dũng mãnh, tiến tới mạnh mẽ, không thể yếu đuối, mơ hồ. Bên cạnh đó cần phải có sự sám hối tha thiết chí thành để giúp mình có được sức mạnh vượt qua nghiệp chướng. Dùng trí tuệ sáng suốt nhìn rõ sự thật trong từng hơi thở, chắc chắn sẽ phá đổ hết những mê lầm ở trong nội tâm để vượt lên tới chỗ cứu cánh, giác ngộ. Tự thân nỗ lực cộng thêm sự nương nhờ vào oai đức của Phật, Pháp, Tăng hỗ trợ thì chắc chắn sẽ vượt qua được tất cả chướng nạn. Đó chính là cốt lõi của sự tu.
Share:
Xem Tiếp →

Ý Nghĩa Bài Kinh ' Tứ Diệu Đế '




Hỏi: Sau khi đức Phật thành đạo, ngài đã thuyết giảng bài kinh ‘Tứ Diệu Đế’ và về sau ngài cũng thường giảng lại bài kinh đó. Vậy ý nghĩa của bài kinh như thế nào ?
Đáp: Tại sao đức Phật nói nhiều về bài kinh đó, mà không nói bài kinh khác? Một hôm, khi đang đi trong một khu rừng, đức Phật nhìn thấy lá cây rụng rất nhiều, ngài đã cúi xuống hốt lên một nắm lá và nói với các thầy Tỳ-kheo là cái mà ngài biết được nhiều như lá cây rụng ở trong rừng, còn những gì mà ngài giảng nói với mọi người thì ít giống như lá ở trong bàn tay của ngài. Bởi vì, ngài chỉ nói về sự thật của khổ đau và con đường đi đến diệt khổ, mà không nói về những việc không quan trọng khác.
Ý nghĩa của bài pháp Tứ Đế, mà đức Phật lặp lại nhiều lần trong suốt cuộc sống của ngài cũng không nằm ngoài mục đích đó. Bài pháp Tứ Đế nói về bốn chân lý của bậc Thánh, gọi chung bốn Đế là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo
* Sự thật đầu tiên là nói về sự đau khổ của kiếp người. Con người từ khi trẻ cho đến lúc già, dù là lứa tuổi nào hoặc ba, bốn chục tuổi hoặc bảy, tám chục tuổi thậm chí cho đến chín mươi, một trăm tuổi đều chịu khổ nhiều hơn là vui. Sự vui thú ở trên thế gian rất ít ỏi và trôi qua mau chóng. Tất cả đều rất mong manh tạm bợ, cho nên tiếp theo sau cái vui đó là vô số sự khổ đau, lo lắng, phiền não chất chồng. Khổ đau luôn là một sự thật chân lý ở cả về mặt thời gian lẫn không gian, dù có trải qua bao nhiêu nă nữa, nó vẫn không hề thay đổi.
Sự khổ của con người được đức Phật chia ra làm tám loại như sau:
- Khổ về sinh: Khi vừa sinh ra con người đã khóc mà không hề cười để báo hiệu cho sự khổ đã sẵn ở trước mắt. Kế đến là khổ do phải vất vả mưu sinh kiếm sống. Người nghèo khổ đã đành, mà người giàu nhiều tiền bạc của cải lại cũng không thể hết khổ vì lo lắng, tính toán ăn ngủ không yên.
- Khổ về già: ngày xưa lúc còn trẻ thì có rất nhiều người đón đưa, chìu  chuộng, tôn sùng ái mộ, nhưng đến lúc già yếu, dung nhan héo úa, chẳng còn ai muốn ngó ngàng. Các ca sĩ, người mẫu, diễn viên điện ảnh nổi tiếng một thời người ta ca tụng, vỗ tay hâm mộ, mà bây giờ chỉ còn là ‘hoa tàn liễu úa’, phải giấu mình nơi vắng vẻ, không còn ai nhớ tới. Kiếp người thật đáng thương xót làm sao!
- Khổ về bệnh tật: không đợi già mới bệnh, mà ngay lúc còn trẻ cũng đã có bệnh rồi. Bệnh tật luôn nằm ẩn bên trong cơ thể, chỉ chờ dịp là bộc phát ra bên ngoài, cho đến các tai nạn giao thông, rủi ro trong lao động.v.v…Đến khi tuổi cao sức yếu thì càng có thêm nhiều bệnh như: tai điếc, mắt mờ, chân rung, gối mỏi, tứ chi đau nhức hoặc các loại bệnh truyền nhiễm như ung thư, viêm gan siêu vi, Aids, H5N1.v.v…càng khiến con người càng khốn khổ nhiều hơn nữa.
- Khổ về chết: sự phân ly của Tứ đại lúc lâm chung, đau đớn bức bách chẳng khác cái khổ nào nơi thế gian có thể so sánh. Cộng thêm sự luyến tiếc nhớ nhung đối với tài sản, vợ con…càng làm cho cái khổ tăng thêm rất nhiều lần.
- Khổ về yêu thương mà phải xa lìa: Không những người yêu thươngcho đến chồng vợ, anh em, bà con, quyến thuộc luôn bị thống khổ vì phải chia lìa, ngăn cách, khiến cho sự nhờ thương càng da diết.
- Khổ về oán ghét, thù hận mà phải gặp gỡ: Ngược lại, những người mà mình chẳng ưa thích cho đến kẻ thù địch, muốn tránh mặt mà cứ phải đụng mặt nhau, khiến cho tâm trạng bực tức, hận thù không nguôi.
- Khổ về cầu mong mà không được toại nguyện:  thích chiếc xe đẹp, một cái áo hàng hiệu, một đôi giày model, một cái điện thoại cảm ứng.v.v...nhưng mong cầu mãi mà vẫn không được. Hoặc buồn khổ vì lỡ một dịp đi chơi hoặc một bữa tiệc ở nhà hàng sang trọng. Bao nhiêu việc mơ ước, mà không có được mấy việc thành tựu cho nên khổ đau mãi.
- Khổ về thân ngũ ấm lẫy lừng: năm ấm không điều hòa với nhau, hôm qua lửa hơi nhiều thì bị nóng sốt, hôm nay nước dâng cao thì sổ mũi, ngày mai gió vô nhiều thì cạo gió, uống thuốc thêm.v.v...đủ các thứ khó chịu xảy ra ở nơi cái thân này, gọi chung là tám cái khổ.
* Sự thật thứ hai là nói về nguyên nhân sinh ra đau khổ;
Nguyên nhân từ đâu sinh ra các đau khổ? Không phải tại ông Trời hay Phật ban phước giáng họa làm chúng ta khổ, mà o tâm mê lầm vô minh, không thấy được lẽ thật, cho nên đã tham đắm từ vật chất cho đến tiền tài, danh vọng. Dù được rồi cũng chưa vừa lòng, mà càng muốn thêm không được nhiều hơn nữa, cho nên sân si, phiền não càng nhiều và đau khổ càng tăng. Tóm lại, nguyên nhân chính của đau khổ là do ‘ba con rắn độc’ tham, sân, si ẩn sâu trong tâm chi phối này làm cội gốc.
* Sự thật thứ ba là nói về cảnh giới an lạc sau khi chấm dứt hết mọi khổ đau:
Cảnh giới chấm dứt đau khổ chính là niết bàn, an lạc là sự thật mà đức Phật và các bậc Thánh nhân đã chứng đắc.
* Sự thật thứ tư là phương pháp, con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ đó:
Muốn đạt tới cảnh giới đó đức Phật đã chỉ ra một con đường, đó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo và rất nhiều pháp môn phương tiện, nhưng chính yếu là việc phá bỏ bức màn vô minh mê lầm, trở về tâm an định sáng suốt, trí huệ đầy đủ. Việc quan trọng nhất là sự tỉnh thức trong giây phút hiện tại theo từng hơi thở với danh hiệu Phật: “Hít vào A Di; Thở ra Đà Phật”, thấy rõ mạng sống này rất mong manh chỉ tồn tại trong một hơi thở. Thường nhớ điều này là phá dẹp tâm si mê tham muốn, tiêu diệt được sân hận phiền não, làm cho trí tuệ sáng tỏ chỉ trong một hơi thở. Đó là phương pháp ‘Một hơi thở phá vỡ vô minh’, là con đường dẫn đến an vui niết bàn vĩnh viễn.
Trên đây là bốn sự thật cốt lõi, là chân lý không bao giờ thay đổi mà đức Phật thường giảng nói trong suốt bốn mươi chín năm hoằng hóa độ sinh.
Share:
Xem Tiếp →

66 câu Phật học làm chấn động Thiền ngữ thế giới

Đọc được gì là tùy mỗi người…Nhưng xin hãy đọc thật chậm, nghĩ thật kỹ và nhớ thật lâu. Cuối cùng là làm theo được càng nhiều càng tốt…

1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.

2. Nếu anh không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho anh. Vì chính tâm anh không buông xuống nỗi.

3. Anh hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình.

4. Anh phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương anh, anh phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực.

5. Khi anh vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi anh đau khổ, anh hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.

6. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.

7. Anh có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên.

8. Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định anh sẽ ân hận.

9. Khi nào anh thật sự buông xuống thì lúc ấy anh sẽ hết phiền não.

10. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành.

11. Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương, chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi người khác.

12. Anh đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, anh phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính anh.

13. Một người nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng họ sẽ không bao giờ được thanh thản.

14. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.

15. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời, xin anh “đa khẩu hạ lưu tình”.



16. Vốn dĩ không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa anh là ai? Giả sử anh bị chó điên cắn anh một phát, chẳng lẽ anh cũng phải chạy đến cắn lại một phát?

17. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ nhớ đến người anh không hề yêu thích.

18. Mong anh đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận.

19. Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao anh lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao anh phải chứa đầy những não phiền như vậy?

20. Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, chính vì anh hiểu nó quá ít, anh không có thời gian ở chung với nó. Nhưng rồi một ngày nào đó khi anh hiểu sâu sắc, anh sẽ phát hiện nó vốn không đẹp như trong tưởng tượng của anh.

21. Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại phát hiện có người không có chân.

22. Tốn thêm một chút tâm lực để chú ý người khác chi bằng bớt một chút tâm lực phản tỉnh chính mình, anh hiểu chứ?

23. Hận thù người khác là một mất mát lớn nhất đối với mình.
24. Mỗi người ai cũng có mạng sống, nhưng không phải ai cũng hiểu được điều đó, thậm chí trân quý mạng sống của mình hơn. Người không hiểu được mạng sống thì mạng sống đối với họ mà nói chính là một sự trừng phạt.


25. Tình chấp là nguyên nhân của khổ não, buông tình chấp anh mới được tự tại.

26. Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn.

27. Khi anh thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối anh.

28. Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện.

29. Người âm thầm quan tâm chúc phúc người khác, đó là một sự bố thí vô hình.

30. Đừng gắng sức suy đoán cách nghĩ của người khác, nếu anh không phán đoán chính xác bằng trí huệ và kinh nghiệm thì mắc phải nhầm lẫn là lẽ thường tình.

31. Muốn hiểu một người, chỉ cần xem mục đích đến và xuất phát điểm của họ có giống nhau không, thì có thể biết được họ có thật lòng không.

32. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu.

33. Người không tắm rửa thì càng xức nước hoa càng thấy thối. Danh tiếng và tôn quý đến từ sự chân tài thực học. Có đức tự nhiên thơm.

34. Thời gian sẽ trôi qua, để thời gian xóa sạch phiền não của anh đi.

35. Anh cứ xem những chuyện đơn thuần thành nghiêm trọng, như thế anh sẽ rất đau khổ.

36. Người luôn e dè với thiện ý của người khác thì hết thuốc cứu chữa.

37. Nói một lời dối gian thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì khổ như vậy?

38. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm.

39. Quảng kết chúng duyên, chính là không làm tổn thương bất cứ người nào.

40. Im lặng là một câu trả lời hay nhất của sự phỉ báng.

41. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.

42. Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.

43. Đến là ngẫu nhiên, đi là tất nhiên. Cho nên anh cần phải “tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng tùy duyên”.

44. Từ bi là vũ khí tốt nhất của chính anh.

45. Chỉ cần đối diện với hiện thực, anh mới vượt qua hiện thực.
46. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, anh dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình.

47. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác.

48. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì?

49. Đừng vì một chút tranh chấp mà xa lìa tình bạn chí thân của anh, cũng đừng vì một chút oán giận mà quên đi thâm ân của người khác.

50. Cảm ơn thượng đế với những gì tôi đã có, cảm ơn thượng đế những gì tôi không có.

51. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi.

52.Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa địch thành bạn.

53. Thành thật đối diện với mâu thuẩn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình.

54. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó.

55. Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.

56. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối anh nhất thời, nhưng nó lại gạt anh suốt đời.




57. Chỉ cần tự giác tâm an, thì đông tây nam bắc đều tốt. Nếu còn một người chưa độ thì đừng nên thoát một mình.

58. Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ này, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.

59. Nếu anh có thể sống qua những ngày bình an, thì đó chính là một phúc phần rồi. Biết bao nhiêu người hôm nay đã không thấy được vầng thái dương của ngày mai, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành tàn phế, biết bao nhiêu người hôm nay đã đánh mất tự do, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành nước mất nhà tan.

60. Anh có nhân sinh quan của anh, tôi có nhân sinh quan của tôi, tôi không dính dáng gì tới anh. Chỉ cần tôi có thể, tôi sẽ cảm hóa được anh. Nếu không thể thì tôi đành cam chịu.

61. Anh hi vọng nắm được sự vĩnh hằng thì anh cần phải khống chế hiện tại.

62. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh.

63. Người khác có thể làm trái nhân quả, người khác có thể tổn hại chúng ta, đánh chúng ta, hủy báng chúng ta. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà oán hận họ, vì sao? Vì chúng ta nhất định phải giữ một bản tánh hoàn chỉnh và một tâm hồn thanh tịnh.

64. Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Anh muốn học tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.

65. Thế giới vốn không thuộc về anh, vì thế anh không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.

66. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm ...
Share:
Xem Tiếp →